Thuốc Rilutek 50mg có hoạt chất chính Riluzole 50mg được chỉ định điều trị bệnh xơ cứng teo cơ một bên (ALS) hiệu quả. Rilutek 50mg được sản xuất bởi hãng Sanofi aventis – Pháp, thuốc được coi là thuốc hiếm (thuốc mồ côi) trong điều trị bệnh xơ cứng teo cơ một bên (ALS). Thông tin cơ bản về thuốc Rilutek 50mg Thành phần chính: Riluzole 50mg Nhà sản xuất: Sanofi aventis – Pháp Quy cách đóng gói: Hộp 4 vỉ x 14 viên Dạng bào chế: Viên nén Nhóm thuốc: Thuốc teo cơ Dược lực học và dược động học của Rilutek 50mg Dược lực học Mặc dù cơ chế bệnh sinh của ALS (bệnh xơ cứng teo cơ một bên) chưa được làm rõ hoàn toàn nhưng người ta cho rằng glutamate (chất dẫn truyền thần kinh kích thích chính trong hệ thần kinh trung ương) có vai trò gây chết tế bào trong bệnh này. Riluzole được cho là có tác dụng bằng cách ức chế con đường glutamate. Cách thức hoạt động là không rõ ràng. Dược động học Hấp thu: Riluzole được hấp thu nhanh chóng sau khi uống với nồng độ tối đa trong huyết tương đạt được trong vòng 60 đến 90 phút (C max = 173 ± 72 (sd) ng/ml). Khoảng 90% liều dùng được hấp thu và sinh khả dụng tuyệt đối là 60 ± 18%. Tốc độ và mức độ hấp thu giảm khi dùng riluzole trong bữa ăn nhiều chất béo (Cmax giảm 44%, AUC giảm 17%). Phân bố: Riluzole được phân bố rộng rãi khắp cơ thể và đã được chứng minh là qua được hàng rào máu não. Thể tích phân bố của riluzole là khoảng 245 ± 69 L (3,4 L/kg). Riluzole liên kết với khoảng 97% protein và nó liên kết chủ yếu với albumin huyết thanh và lipoprotein. Chuyển hóa: Con đường trao đổi chất chính của riluzole là quá trình oxy hóa sơ cấp bởi cytochrome P450 1A2 thành N-hydroxy-riluzole (RPR112512), chất chuyển hóa có hoạt tính chính của riluzole. Chất chuyển hóa này nhanh chóng được glucuronid hóa thành O- và N-glucuronide. Thải trừ: Thời gian bán hủy thải trừ là 9 đến 15 giờ. Riluzole được thải trừ chủ yếu qua nước tiểu. Sự bài tiết qua nước tiểu nói chung chiếm khoảng 90% liều dùng. Glucuronide chiếm hơn 85% chất chuyển hóa trong nước tiểu. Chỉ 2% liều riluzole được tìm thấy dưới dạng không đổi trong nước tiểu. Thành phần thuốc Rilutek 50mg điều trị ALS Thành phần hoạt chất chính: Riluzole 50mg Lõi viên: Canxi photphat, Cellulose vi tinh thể, Silica keo, Magiê Stearate, Croscarmellose natri Vỏ: HypromelloseMacrogol 6000Titanium dioxide (E171) Công dụng – Chỉ định thuốc Rilutek 50mg Rilutek (Riluzole) được chỉ định để kéo dài thời gian sống sót hoặc thời gian thở máy ở bệnh nhân mắc bệnh xơ cứng teo cơ một bên (ALS). Các thử nghiệm lâm sàng đã chứng minh rằng Rilutek kéo dài thời gian sống sót cho bệnh nhân ALS. Sống sót được định nghĩa là bệnh nhân còn sống, không cần đặt nội khí quản để thở máy và không được phẫu thuật mở khí quản. Hướng dẫn sử dụng thuốc Rilutek 50mg Lliều lượng 100mg/ngày chia làm 2 lần cách nhau 12 giờ (tức là 2 viên/ngày chia làm 2 lần cách nhau 12 giờ), nên uống trước bữa ăn 1 giờ hoặc sau bữa ăn 2 giờ (1,2,3) Cách sử dụng Uống trước hoặc sau bữa ăn Không nhai hoặc bẻ mà nuốt cả viên với nước Không tăng giảm liều lượng một cách tùy tiện mà chỉ theo chỉ dẫn của bác sĩ Chống chỉ định Quá mẫn cảm với hoạt chất hoặc với bất kỳ tá dược nào của thuốc Phụ nữ mang thai và cho con bú Bệnh gan hoặc mức transaminase cơ bản lớn hơn 3 lần giới hạn trên của mức bình thường Thận trọng khi sử dụng Rilutek 50mg Thận trọng khi sử dụng ở bệnh nhân suy gan hoặc bệnh phổi kẽ Trong khi dùng thuốc Rilutek 50mg Riluzole, người dùng tuyệt đối không sử dụng rượu, chất kích thích, uống cà phê, không hút thuốc và chú ý tuân thủ liều lượng, chế độ ăn uống theo hướng dẫn của bác sĩ điều trị. Rilutek có thể ảnh hưởng đến sự tập trung khi học tập, lái xe, vận hành máy móc hoặc làm công việc nặng nhọc. Báo cáo sốt nên nhắc bác sĩ kiểm tra số lượng bạch cầu và ngừng dùng riluzole trong trường hợp giảm bạch cầu. Không có bằng chứng nào cho thấy Rilutek có tác dụng điều trị đối với chức năng vận động, chức năng phổi, rối loạn vận động, sức mạnh cơ bắp và các triệu chứng vận động. Rilutek chưa được chứng minh là có hiệu quả trong giai đoạn cuối của ALS Kiểm tra kỹ ngày hết hạn và số đăng ký của thuốc Tương tác thuốc của Thuốc Rilutek 50mg Thuốc được chuyển hóa chủ yếu bởi CYP 1A2 ở gan, do đó tương tác thuốc xảy ra chủ yếu là tương tác dược động học. CYP 1A2 là isozyme chính tham gia vào quá trình chuyển hóa oxy hóa chính của riluzole. Các chất ức chế CYP 1A2 (ví dụ: caffeine, diclofenac, diazepam, nicergoline, clomipramine, imipramine, fluvoxamine, phenacetin, theophylline, amitriptyline và quinolone) có thể làm giảm tốc độ loại bỏ riluzole, trong khi các chất gây cảm ứng CYP 1A2 (ví dụ khói thuốc lá, nướng than, rifampicin và omeprazole) ) có thể làm tăng tốc độ loại bỏ riluzole. Tác dụng phụ khi sử dụng Rilutek 50mg Tác dụng phụ thường gặp: suy nhược, buồn nôn và xét nghiệm chức năng gan bất thường Một số tác dụng khác: Nhức đầu, chóng mặt, dị cảm ở miệng, buồn ngủ, nhịp tim nhanh, tiêu chảy, đau bụng, nôn mửa, phản ứng phản vệ, phù mạch. Liên hệ với bác sĩ của bạn ngay lập tức nếu bạn gặp các triệu chứng trên. Quá liều và điều trị Trong trường hợp dùng thuốc Rilutek 50mg quá liều hoặc dùng quá liều quy định và cần được cấp cứu, người nhà cần mang theo đơn/lọ thuốc mà nạn nhân đã uống. Ngoài ra, gia đình bệnh nhân cũng cần biết chiều cao, cân nặng của nạn nhân để thông báo cho bác sĩ. Tôi nên làm gì nếu quên một liều? Thêm một liều bổ sung nếu quá thời điểm sử dụng thuốc 1-2 giờ. Tuy nhiên, nếu gần đến giờ dùng liều tiếp theo, bạn nên dùng liều tiếp theo vào thời gian quy định mà không tăng gấp đôi liều theo chỉ dẫn của bác sĩ. Thuốc Rilutek 50mg có bao nhiêu loại? Hiện nay thuốc điều trị ALS Riluzole 50mg chưa được nhập khẩu về Việt Nam. Để phục vụ điều trị cho bệnh nhân ALS, thuốc Rilutek 50mg của Pháp được nhập khẩu thủ công về Việt Nam. Ngoài thuốc từ Pháp, thuốc Rilutek 50mg còn được nhập khẩu từ Thổ Nhĩ Kỳ. Để mua được thuốc Rilutek 50mg chính hãng, chất lượng, hãy liên hệ Nhà thuốc AZ để được tư vấn. Bệnh xơ cứng teo cơ một bên (ALS) là gì? Bệnh xơ cứng teo cơ một bên hay ALS là một bệnh liên quan đến hệ thần kinh, ảnh hưởng đến các tế bào thần kinh trong não và tủy sống, gây mất kiểm soát cơ. . Hội chứng ALS còn được gọi là “bệnh Lou Gehrig” – Tên của một cầu thủ bóng chày sau khi được chẩn đoán mắc căn bệnh trên. Cho đến nay, nguyên nhân gây ra bệnh xơ cứng teo cơ một bên vẫn chưa được nghiên cứu đầy đủ. Một số trường hợp được cho là do di truyền. Bệnh thường bắt đầu bằng tình trạng co giật cơ, yếu một chi hoặc nói ngọng. Bệnh xơ cứng teo cơ một bên chủ yếu ảnh hưởng đến các nhóm cơ ở bên trái cơ thể. Cuối cùng, căn bệnh này ảnh hưởng đến tất cả các cơ cần điều khiển để di chuyển, nói, ăn và thở. Hiện tại không có cách điều trị cho căn bệnh này.